Logo Binh Chủng Hóa Học

Logo Binh Chủng Hóa Học

(Bqp.vn) - Trước thực tiễn sử dụng và phát triển những loại vũ khí giết người hàng loạt trong các cuộc chiến tranh thế giới, việc thực dân Pháp đã sử dụng bom cháy napan, phốt pho ở Việt Nam, Đảng và Bác Hồ đã thấy rõ nguy cơ đất nước phải đối mặt với một cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí hủy diệt lớn khi Mỹ thay Pháp nhảy vào Việt Nam. Từ nhận định đánh giá nhạy bén, chính xác này, Tổng Quân ủy đã tích cực làm công tác tổ chức, chấn chỉnh các đơn vị quân, binh chủng đã được xây dựng từ trước và chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời một số quân, binh chủng mới, trong đó có Bộ đội Hóa học.

Đại tá Bùi Ngọc Tuyên, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Binh chủng Pháo binh chủ trì hội nghị. Ảnh: KIM NGỌC

Chỉ đạo những vấn đề trọng tâm năm 2024, Trung tướng Phạm Trường Sơn yêu cầu Đảng ủy Binh chủng Pháo binh tập trung lãnh đạo nắm chắc tình hình, thực lực trang bị lực lượng pháo binh toàn quân; tham mưu với Bộ Quốc phòng về tổ chức, sử dụng pháo binh theo các phương án tác chiến, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; kiểm tra nắm chắc tình hình lực lượng pháo binh các quân khu, quân đoàn, Quân chủng Hải quân; tập trung chỉ đạo điều chỉnh, bổ sung hệ thống văn kiện sẵn sàng chiến đấu phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; tổ chức luyện tập các phương án tác chiến bảo đảm chặt chẽ, sát thực tế.

Đi liền với công tác kiểm tra, xây dựng, quản lý công trình chiến đấu bảo đảm bí mật, an toàn, đúng tiến độ, Trung tướng Phạm Trường Sơn lưu ý Binh chủng Pháo binh tiếp tục đột phá, đổi mới huấn luyện theo Nghị quyết số 1659- NQ/QUTW, ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023-2030 và những năm tiếp theo; tổ chức huấn luyện theo đúng phương châm, quan điểm, nguyên tắc các mối kết hợp; coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, lấy thực hành là chính.

Chú trọng huấn luyện sử dụng thành thạo trang bị kỹ thuật hiện có, nhất là trang bị kỹ thuật mới; huấn luyện cường độ cao trong mọi điều kiện, sát với nhiệm vụ, đối tượng địa bàn tác chiến; huấn luyện thành thạo các tiêu chuẩn pháo binh, vận dụng hiệu quả vào huấn luyện chiến thuật.

Nhấn mạnh vai trò của hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ, Trung tướng Phạm Trường Sơn đề nghị Binh chủng Pháo binh tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật, xây dựng cho bộ đội bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào lãnh đạo, chỉ huy và vũ khí, khí tài, trang bị; quyết tâm khắc phục khó khăn, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Chú trọng công tác nắm, quản lý, dự báo và giải quyết kịp thời tình hình tư tưởng ngay từ cơ sở; đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các Phong trào Thi đua Quyết thắng, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng cơ quan, đơn vị an toàn về mọi mặt...

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Quốc phòng an ninh xem các tin, bài liên quan.

Binh chủng Đặc công là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý và chỉ đạo. Binh chủng Đặc công có nhiệm vụ tập trung nghiên cứu, tham mưu cho Bộ Quốc phòng Việt Nam xây dựng và phát triển các lực lượng Đặc công theo hướng tinh - gọn - chất lượng cao. Đây là một lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, quân nhân được tổ chức, trang bị và huấn luyện đặc biệt, có phương pháp tác chiến linh hoạt, táo bạo, bất ngờ, thường dùng để tập kích bất ngờ vào các mục tiêu hiểm yếu nằm sâu trong đội hình chiến đấu, bố trí chiến dịch và hậu phương của địch.

Tuy ngày thành lập chính thức là năm 1967, nhưng từ Chiến tranh Đông Dương (1946 - 1954), cách đánh "công đồn đặc biệt" ở chiến trường Nam Bộ, cách đánh và tổ chức đặc công đã phát triển nhanh chóng, hình thành ba loại lực lượng:

Trong Chiến tranh Đông Dương, từ sau cuộc tiến công lên Việt Bắc bị thất bại, Đệ Tứ Cộng hòa Pháp xây dựng hàng loạt đồn bót bao vây chiến khu. Trước tình hình mới, bộ đội Việt Nam không thể dừng lại ở những trận tập kích, phục kích tiêu hao, quấy rối, mà phải tiến lên tiêu diệt các cứ điểm nhỏ này. Nhưng để đánh được cứ điểm thì phải dùng cách đánh bất ngờ (kỳ tập). Nếu quân Pháp phòng thủ mạnh thì phải có pháo hạng nặng (cường tập), mà bộ đội thì pháo quá ít, đạn pháo khan hiếm. Cuối cùng một cách đánh mới được đề xuất: bí mật đột nhập đánh bất ngờ, nếu bị lộ thì chuyển sang đánh bằng hỏa lực mạnh. Với cách đánh kỳ tập kết hợp với cường tập, từ thu-đông 1948 đến đầu 1950, trên chiến trường Bắc Bộ, quân Việt Nam đã tiêu diệt hàng loạt đồn bốt, cứ điểm quân Pháp.

Ở chiến trường Nam Bộ, Pháp tăng quân, xây dựng hệ thống bót Delatour là sản phẩm của tướng Delatour Desmer, Tư lệnh Quân viễn chinh Pháp ở Nam Bộ. Hàng loạt đồn bót dựng lên xung quanh thị xã, thành phố và trên các đường giao thông quan trọng, nhằm bao vây, chia cắt, ngăn chặn lực lượng vũ trang Việt Minh.

Phong trào du kích phát triển khắp nông thôn, thành thị, nhưng Việt Minh gặp khó khăn do chưa có chiến thuật hữu hiệu và loại vũ khí có đủ sức công phá tường dày của tháp canh. Qua nhiều lần thử nghiệm thắng lợi, đặc biệt là trận đánh đêm 18 rạng 19 tháng 3 năm 1948 tiêu diệt đồn cầu Bà Kiên, đã mở ra một khả năng mới đánh địch trong vị trí cố thủ vũng chắc. Từ thực tế đánh tháp canh, Việt Minh đúc kết được kinh nghiệm thực tiễn, làm tiền đề cho chiến thuật đặc công ra đời.

Đặc công bộ hiện nay có Lữ đoàn Đặc công 113 (3 lần được phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân các năm 1975, 1979, 2000), Lữ đoàn Đặc công 198 (thành lập năm 1974, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1976), Lữ đoàn Đặc công 429.

Đặc công hải quân là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ, được huấn luyện để tiến công các mục tiêu thủy của đối phương như: bến cảng, tàu thủy,... và các mục tiêu chỉ có thể xâm nhập qua đường thủy: căn cứ biệt lập, căn cứ thủy quân... Nếu đặc công bộ có lối đánh đặc biệt thì đặc công hải quân càng đặc biệt, vì đánh dưới nước khó khăn hơn nhiều so với trên bộ, trang bị vũ khí cũng khác biệt hơn. Đặc công hải quân (còn gọi là đặc công thủy) ra đời do yêu cầu đánh vào đối tượng hải quân của Pháp và những mục tiêu vùng sông nước, do đó xuất hiện gần như song song với đặc công bộ.

Trong cuộc Chiến tranh Đông Dương, các hoạt động trên sông nước của quân Pháp chiếm một phần quan trọng trên chiến trường. Lợi dụng lãnh thổ Việt Nam có bờ biển dài, nhiều sông ngòi, có vùng sông ngòi chằng chịt như miền Tây Nam Bộ, quân Pháp đã bố trí một lực lượng hải quân khá mạnh. Hải quân Pháp tập trung vào 3 hoạt động chủ yếu:

Vì thế việc đánh Pháp trên mặt trận sông biển có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Ở miền Bắc Việt Nam, các vùng ven sông, ven biển khẩn trương xây dựng các đội săn tàu Pháp, sẵn sàng đánh quân Pháp trên mặt trận sông nước.

Trong Chiến dịch Hà Nam Ninh (tháng 6 năm 1951), tổ đặc công nước do Nguyễn Quang Vinh (thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn 308) chỉ huy dùng thuyền nan chở 300 kg thuốc nổ đánh chìm tàu LCD chở vũ khí của quân Pháp [1]. Đây là trận mở đầu cho cách đánh tàu chiến trên chiến trường Bắc Bộ, tạo tiền đề cho việc nghiện cứu sử dụng đặc công đánh các mục tiêu tên sông, biển. Ở miền Nam, đầu năm 1949, đội săn tàu Long Châu Sa dùng thủy lôi tự tạo đánh chìm tàu Glycin trên sông Sài Thượng, diệt hàng trăm quân đối phương [1].

Ở vùng Rừng Sác, vào tháng 9 năm 1950, các đội đặc công được hình thành từ Trung đoàn 300, hoạt động ở vùng Nhà Bè, Thủ Thiêm xuống Cần Giờ, Soài Rạp. Lực lượng này chiến đấu rất dũng cảm, táo bạo, được gọi là "quân cảm tử", diệt nhiều chỉ huy Pháp và tay sai. Như vậy trong giai đoạn đầu kháng chiến, cùng với cách đánh của đặc công bộ, cách đánh của đặc công thủy cũng bắt đầu phát triển. Dựa trên những tiến bộ của quá trình nghiên cứu cải tiến vũ khí, các địa phương ở Bắc Bộ và Nam Bộ đã tổ chức được một lực lượng chuyên, tinh để đánh tàu, thuyền bằng cách đánh đặc công.

Trong thành tích của lực lượng đặc công rừng Sác, nổi bật là việc đánh chìm tàu vận tải cỡ lớn USS Baton Rouge Victory giãn nước 10.000 tấn vào sáng ngày 23 tháng 8 năm 1966. Con tàu đã bị đánh chìm trên sông Ngã Bảy bởi hai quả thủy lôi, trọng lượng 1.075 kg/quả. Muốn gài thủy lôi thì phải có tàu vận chuyển lớn, sử dụng cần cẩu để thả thủy lôi, đặc công rừng Sác không có những trang bị đó nên đã sáng tạo ra chiến thuật: vận chuyển thủy lôi bằng ghe gỗ loại nhỏ, được ngụy trang giống như ngư dân đi buôn, khi đến nơi sẽ nhận chìm ghe để thả thủy lôi. Vụ đánh chìm USS Baton Rouge Victory đã giết chết 7 thủy thủ Mỹ, nhấn chìm hàng nghìn tấn vũ khí, hàng hóa mà con tàu chở theo.[2][3]

Ngày 13 tháng 4 năm 1966, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra quyết định thành lập Đoàn huấn luyện trinh sát đặc công mang phiên hiệu Đoàn 126 trực thuộc Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam và Tư lệnh Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam. Đoàn trưởng được giao cho Hoàng Đắc Cót và Phạm Điệng là Chính ủy. Tháng 5 năm 1966, Bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức Đoàn 126 thành cơ quan đoàn bộ và 12 đội chiến đấu, Lực lượng Đặc nhiệm hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam đã hình thành. Cuối 1966, một lực lượng lớn của Đoàn 126 được đưa vào chiến trường Quảng Trị, Đà Nẵng, Qui Nhơn và Nam Bộ thâm nhập thực tế chiến đấu. Ngày 10 tháng 3 năm 1967, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 (Mặt trận Trị - Thiên) giao nhiệm vụ cho Đoàn 126 tiêu diệt tàu địch ở cảng và sông từ Cửa Việt tới Đông Hà. Tàu cuốc 70 tấn của Hàn Quốc bị ốp mìn nổ tung. Ngày 9/5/1967, tàu cuốc Hayda dài 71m, rộng 12m bị đánh chìm xuống sông Cửa Việt, tàu LST trọng tải lớn 5.000 tấn chở xe thiết giáp và vũ khí hạng nặng cũng bị đánh chìm xuống sông. Ngày 15/5/1967, 1 tàu LCU bị đánh chìm tại chỗ nằm vắt ngang sông Cửa Việt. Chỉ trong vòng 5 tháng chiến đấu, từ tháng 4 đến 9 năm 1967, riêng Đội 1 của Đoàn 126 đã tham chiến 6 trận, đánh chìm 10 tàu địch, làm hư hỏng 2 tàu khác, phá hủy nhiều phương tiện vũ khí[4]

Trong 10 ngày hoạt động ở Thị trấn Cửa Việt (19 đến 29-1-1968), Đoàn 126 đã thả được 13 quả thủy lôi xuống dòng sông Cửa Việt, đánh chìm 8 tàu, phá hủy hàng nghìn tấn hàng hóa và phương tiện chiến tranh của địch, làm gián đoạn giao thông của địch ở cảng Cửa Việt nhiều ngày liền. Từ 28/2 tới 1/3/1968, trong Trận Bạch Đằng trên sông Hiếu, Đoàn 126 đánh chìm 7 tàu tiếp viện, đánh hỏng nặng 5 tàu khác của Hải quân Hoa Kỳ, tuyến tiếp viện hậu cần bằng đường thủy từ Cửa Việt – Đông Hà của quân đội Mỹ bị tắc nghẽn trong nhiều ngày. Cuối tháng 5 đầu tháng 6/1968, Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 đánh chìm 3 tàu gồm: 1 tàu LST 5000 tấn, 1 tàu LCU 360 tấn và 1 tàu tuần tiễu, khiến địch buộc phải thay đổi phương thức vận tải, các tàu trọng tải lớn trên 4.000 tấn phải neo đậu ngoài biển, cách bờ từ 1 - 5 hải lý, không được vào cảng[5].

Tối ngày 6/9/1969, tại điểm xuất phát ở (thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị), Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126 cử tổ chiến đấu 3 người lặn tới đánh mìn tàu địch. Mỗi người mang theo ống thở, khí tài lặn, hai thủ pháo, hai lựu đạn, dao găm… riêng 2 người nhận thêm hai quả mìn rùa nặng 6,8 kg do Liên Xô sản xuất. Đây là loại vũ khí lợi hại của đặc công nước, có ghép 48 mảnh nam châm hình móng ngựa, có sức hút 100 kg. Khi mìn đã áp vào sườn tàu, rút chốt an toàn, đúng giờ sẽ nổ, nếu chưa đến giờ nổ mà bị tháo gỡ mìn cũng sẽ tự phát nổ bởi nó có ngòi chống tháo. Sau 2 ngày ẩn nấp, tổ chiến đấu đã tiếp cận tàu Mỹ, gắn mìn rùa rồi rút lui. Vài giờ sau mìn nổ, chiếc tàu vận tải USS Noxubee trọng tải 4.000 tấn bị hư hại nặng.

Trong 7 năm, từ năm 1966-1973, Đoàn 126 trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Cửa Việt - Đông Hà - Quảng Trị, chiến đấu gần 400 trận, đánh chìm, đánh hỏng 372 tàu xuồng các loại của địch, nhấn chìm hàng chục vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, tiêu diệt hàng ngàn binh lính địch[6]

Tiểu đoàn Đặc công nước 471 - Quân khu 5 được thành lập ngày 25-2-1971 tại Trà Bồng (Quảng Ngãi); sau đó chuyển ra hoạt động ở cánh Bắc Hòa Vang, thuộc Mặt trận 4 Quảng Đà, làm nhiệm vụ đánh phá các mục tiêu cố định của quân Mỹ - ngụy. Trong vòng 5 năm (4/1971-4/1975), Tiểu đoàn đã đánh 41 trận (29 trận dưới nước, 12 trận trên cạn), tiêu diệt 800 tên địch (trong đó có một số lính Mỹ), đánh chìm 10 tàu vận tải quân sự (bao gồm 1 tàu chở dầu, 1 pháo hạm) trọng tải 8-10 nghìn tấn, 1 hải thuyền, 1 cầu cảng Tiên Sa[7].

Trong chiến tranh chống Mỹ, Hải quân Việt Nam đã huấn luyện, đào tạo, bổ sung cho các chiến trường miền Nam hơn 5.000 cán bộ, chiến sĩ đặc công nước. Trong 7 năm chiến đấu trên chiến trường Cửa Việt – Đông Hà, đặc công Hải quân đã đánh 300 trận; đánh chìm, đánh hỏng 336 tàu xuồng chiến đấu, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Góp phần cùng các lực lượng trên khắp chiến trường miền Nam đánh chìm, đánh hỏng 4.473 tàu thuyền, đánh sập hàng trăm cầu cống, vật chất phục vụ chiến tranh, góp phần cùng quân dân miền Nam đánh bại kẻ thù[8].

Đặc công nước hiện nay gồm Lữ đoàn Đặc công 5 trực thuộc Binh chủng Đặc công, Quân đội nhân dân Việt Nam, Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126, Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam và một số đơn vị thuộc các quân khu và quân đoàn.

Do tính chất của cuộc kháng chiến lâu dài và để phù hợp với phương châm, phương thức hoạt động tác chiến ở thành phố, bên cạnh các lực lượng vũ trang đô thị như Tự vệ thành, Thanh niên xung phong, Quốc gia tự vệ cuộc, Công đoàn xung phong... các tổ chức quân sự chuyên trách lần lượt ra đời. Lực lượng này hơi khác với đặc công bộ thông thường mặc dù trong tổ chức có rất nhiều điểm tương đồng. Biệt động hầu như chỉ hoạt động vào ban ngày và rút lui về đêm.

Đặc công biệt động trong các đô thị tại miền nam trước 1975 là lực lượng gần giống với "bộ đội địa phương" tại thành phố, nhưng có trình độ tác chiến đô thị tốt hơn. Họ phải tác chiến độc lập vì thiếu phối hợp từ các đơn vị bạn, đồng thời phải luôn nương nhờ vào hậu cần của người dân trong thành phố, nếu không có người dân hỗ trợ thì mạng lưới sẽ bị phá.

Chiến công nổi bật của đặc công biệt động là việc đánh chìm tàu USNS Card (vốn là tàu sân bay hộ tống giãn nước 15.000 tấn) vào ngày 2 tháng 5 năm 1964. Chiến sĩ đặc công Lâm Sơn Náo thuộc lực lượng đặc công Sài Gòn-Gia Định đã bí mật lặn tới tàu, đặt 2 khối chất nổ, mỗi khối gồm 40 kg TNT và 2 kg C4. Hai khối thuốc nổ được đặt cách nhau 10m, áp chặt lườn tàu làm nổ tung hông tàu. USS Card bị đắm ở độ sâu 15 m nước (độ sâu sông Sài Gòn tại cầu cảng).

Về cuối cuộc chiến, đặc công biệt động tách hẳn làm 2 thành phần: những tân binh thiếu kinh nghiệm (chiếm quá nửa là nữ) tham gia dẫn đường cho bộ đội chủ lực chiếm giữ nội đô; còn những người dày dạn kinh nghiệm được huy động về căn cứ để huấn luyện bộ binh trở thành đặc công. Trong Chiến dịch Mùa Xuân 1975, đặc công biệt động đã đánh chiếm, giữ vững nhiều cầu và căn cứ quan trọng, bảo đảm cho các binh đoàn chủ lực tiến công, giành thắng lợi nhanh chóng và trọn vẹn.

Đặc công biệt động hiện nay có Lữ đoàn Đặc công Biệt động 1, trước đóng ở Gia Lâm.

"Đặc biệt tinh nhuệ, Anh dũng tuyệt vời, Mưu trí táo bạo, Đánh hiểm thắng lớn".[cần dẫn nguồn]